Chat hỗ trợ
Chat ngay

Giải Phẩu Phổi

1. Chức năng của phổi là gì?

Phổi là cơ quan thuộc hệ hô hấp, là nơi trao đổi không khí giữa cơ thể và môi trường. Phổi được bao bọc trong 1 thanh mạc bao gồm 2 lá. Tính chất phổi là đàn hồi, xốp và mềm. Mỗi người có 2 lá phổi, được cấu tạo bởi các thùy. Lá phổi bên phải thường lớn hơn lá phổi trái. Dung tích mỗi phổi khoảng 5000ml khi hít vào gắng sức.

Chức năng của phổi là trao đổi giữa không khí và máu. Đây là quá trình được thực hiện trên toàn bề mặt trong của phế quản. Để loại bỏ những vật thể lạ ra ngoài, niêm mạc bao phủ phế nang luôn rung động. Các tế bào phổi đóng vai trò duy trì sự sống tế bào biểu mô và nội mô. Tế bào phổi tạo hàng rào ngăn chặn các phân tử và nước đi qua vào mô kẽ. Đồng thời, các tế bào phổi cũng tham gia vào quá trình vận chuyển và tổng hợp nhiều chất trong cơ thể.

2. Phôi thai học

Trước khi tìm hiểu về giải phẫu phổi, mỗi người nên nắm được sự hình thành của phổi từ giai đoạn phôi thai:

Mầm của các cơ quan hô hấp là 1 rãnh dài, xuất hiện vào tuần thứ 4 của phôi thai. Ống mầm được bao bọc bởi tổ chức nội bì (tổ chức này về sau phát triển thành lớp biểu mô của cơ quan hô hấp). Phần đầu ống mầm phát triển thành thanh quản, khí quản. Từ đuôi của ống mầm, ở 2 thành bên mọc ra 2 nụ phổi phải và trái. Ban đầu, 2 nụ phổi phát triển cân đối và đối xứng nhưng từ tuần thứ 6 - 7, các phổi bắt đầu được phân chia thành các thùy phổi. Phổi phải được chia thành 3 thùy, phổi trái được chia thành 2 thùy.

Từ tuần thứ 6 của bào thai, sự phát triển các thành phần của cuống phổi hoàn thành. Đường dẫn khí gồm các phế quản tận đã được hình thành. Khi phổi phát triển sẽ lồi ra 2 bên vào khoang lồng ngực để về sau hình thành khoang màng phổi.

Vào tuần thứ 6 của thai kỳ, cung động mạch chủ thứ 6 bên trái sẽ tạo thành động mạch phổi trái và phải. Mỗi động mạch phổi có sự liên quan mật thiết với các phế quản gốc, phát triển thành các nhánh đi kèm với phế quản tương ứng. Các cặp động mạch và phế quản này đi vào các thùy phổi, phân nhánh vào các phân thùy, phát triển vào tổ chức nhu mô phổi. Khi phổi phát triển, các cặp động mạch và phế quản nằm ở vị trí trung tâm mỗi tùy, phân nhỏ thành các nhánh.

Các tĩnh mạch phổi chính được phát triển từ mầm tâm nhĩ. Các tĩnh mạch trong phổi được tạo ra từ lớp tổ chức trung mô. Các tĩnh mạch trong phổi sẽ nhận các nhánh màng phổi và mạng lưới mạch máu phát triển từ đỉnh cây phế quản. Khi đi ra ngoại vi, các tĩnh mạch trong phổi tạo thành các tĩnh mạch gian thùy, chạy trong lớp tổ chức liên kết giữa các thùy phổi. Các tĩnh mạch trong thùy phổi hợp nhất, tạo thành tĩnh mạch phân thùy. Các tĩnh mạch phân thùy hợp nhất để tạo thành tĩnh mạch lớn, tĩnh mạch phổi gần rốn phổi. Các tĩnh mạch này tiếp tục hợp nhất, tạo thành tĩnh mạch phổi trên và dưới.

3. Giải phẫu phổi

Trong giải phẫu tim phổi, phổi gồm hình thể ngoài và hình thể trong.

3.1 Hình thể ngoài

Phổi có dạng 1 nửa hình nón, treo trong khoang màng phổi bởi dây chằng phổi và cuống phổi. Phổi có 3 mặt, 1 đỉnh, 2 bờ. Mặt ngoài lồi, áp vào thành ngực; mặt trong là giới hạn 2 bên của trung thất; mặt dưới (đáy phổi) áp vào cơ hoành.

Cấu tạo hình thể ngoài của phổi gồm:

  • Đáy phổi: Nằm sát lên vòm hoành, qua vòm hoành liên quan với các tạng ở ổ bụng, đặc biệt là với gan;
  • Đỉnh phổi: Nhô lên khỏi xương sườn 1. Ở phía sau, đỉnh phổi ngang mức đầu sau của xương sườn 1. Ở phía trước, đỉnh phổi nằm trên phần trong xương đòn khoảng 3cm;
  • Mặt sườn: Điểm chung của 2 phổi là áp sát mặt trong lồng ngực, có vết ấn của các xương sườn. Điểm riêng của từng phổi là: Phổi phải có 3 thùy (thùy trên, thùy giữa và thùy dưới), phổi trái có 2 thùy (thùy trên và thùy dưới);
  • Mặt trong: Hơi lõm, gồm 2 phần: Phần cột sống (liên quan với cột sống) và phần trung thất (quây lây các tạng trong trung thất). Giữa mặt trong của 2 phổi có rốn phổi. Phía sau rốn phổi có rãnh tĩnh mạch đơn và ấn thực quản ở phổi phải, rãnh động mạch chủ ở phổi trái. Phía trên rốn phổi có rãnh thân tĩnh mạch cánh tay đầu và rãnh động mạch dưới đòn;
  • Các bờ: Gồm bờ trước (tạo nên bởi mặt sườn và mặt hoành) và bờ dưới (gồm 2 đoạn là đoạn cong và đoạn thẳng).

3.2 Hình thể trong

Trong giải phẫu phổi, phổi được cấu tạo bởi các thành phần đi qua rốn phổi, phân chia nhỏ dần trong phổi. Đó là: Cây phế quản, động mạch phổi, tĩnh mạch phổi, động mạch phế quản, tĩnh mạch phế quản, bạch mạch, các mô liên kết và các sợi thần kinh.

Đặc điểm hình thể trong của phổi như sau:

  • Cây phế quản: Phế quản chính chui vào rốn phổi, chia thành các phế quản thùy. Mỗi phế quản thùy dẫn khí cho 1 thùy phổi, tiếp tục chia thành các phế quản phân thùy để dẫn khí cho 1 phân thùy phổi. Phế quản phân thùy lại chia ra các phế quản hạ phân thùy, chia nhiều lần tới phế quản tiểu thùy - dẫn khí cho 1 tiểu thùy phổi;
  • Động mạch phổi: Phần thân động mạch phổi đi từ lỗ động mạch phổi của tâm thất phải tới bờ sau quai động mạch chủ, chia thành động mạch phổi trái và động mạch phổi phải. Động mạch phổi trái bắt chéo ở mặt trước phế quản chính trái, chui vào rốn phổi ở vị trí phía trên phế quản thùy trên trái. Động mạch phổi phải chui vào rốn phổi phải trước phế quản chính, ra ngoài, đi tới sau phế quản;
  • Tĩnh mạch phổi: Hệ thống lưới mao mạch phế nang đổ vào tĩnh mạch quanh tiểu thùy, tiếp tục thành những thân lớn dần, tới các tĩnh mạch gian phân thùy hoặc tĩnh mạch trong phân thùy, tĩnh mạch thùy, họp thành 2 tĩnh mạch ở mỗi bên phổi, dẫn máu giàu oxy đưa về tâm nhĩ trái. Hệ thống tĩnh mạch của phổi không có van;
  • Động mạch và tĩnh mạch phế quản: Cung cấp dinh dưỡng cho phổi. Động mạch phế quản là nhánh bên của động mạch chủ. Tĩnh mạch phế quản đổ vào các tĩnh mạch đơn và tĩnh mạch phổi;
  • Bạch huyết: Gồm nhiều mạch bạch huyết chạy trong nhu mô phổi, sau đó đổ vào các hạch bạch huyết phổi, đổ vào các hạch khí quản trên và dưới ở vị trí chia đôi của khí quản;
  • Thần kinh: Thần kinh đến phổi bao gồm hệ thần kinh giao cảm và hệ phó giao cảm.

Hình thể trong của giải phẫu phổi

Hình thể trong của giải phẫu phổi

4. Giải phẫu màng phổi

Bên cạnh giải phẫu phổi, giải phẫu màng phổi cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm. Màng phổi là 1 thanh mạch gồm 2 lá: Màng phổi tạng và màng phổi thành. Nằm giữa 2 lá là ổ màng phổi. Đặc điểm cụ thể như sau:

  • Màng phổi tạng: Bao phủ toàn bộ bề mặt, dính chặt vào nhu mô phổi, lách vào các khe gian thùy. Ở rốn phổi, màng phổi tạng quạt ra, tiếp giáp với màng phổi thành;
  • Màng phổi thành: Lót mặt trong lồng ngực, tạo nên túi màng phổi. Màng phổi thành gồm: Màng phổi trung thất, màng phổi sườn và màng phổi hoành. Đỉnh màng phổi là chính là màng phổi thành tương ứng với đỉnh phổi. Ngách màng phổi được tạo thành bởi 2 phần của màng phổi thành, gồm ngách sườn hoành và ngách sườn trung thất;
  • Ổ màng phổi: Là 1 khoang ảo, nằm ở giữa màng phổi tạng và màng phổi thành. Mỗi phổi đều có 1 ổ màng phổi kín, riêng biệt và không thông nhau.

Mạch máu và thần kinh của màng phổi:

  • Động mạch: Màng phổi thành được cung cấp máu bởi nhánh của các động mạch kế cận (động mạch gian sườn, động mạch ngực trong, các nhánh trung thất, động mạch của cơ hoành). Màng phổi tạng được cung cấp máu từ các động mạch phế quản;
  • Tĩnh mạch: Đi cùng với động mạch;
  • Thần kinh: Màng phổi sườn bị chi phối bởi các dây thần kinh gian sườn; màng phổi sườn và màng phổi trung thất bị chi phối bởi các nhánh cảm giác của dây thần kinh hoành; màng phổi tạng bị chi phối thần kinh từ đám rối phổi.